Nhồi máu cơ tim là căn bệnh nguy hiểm hàng đầu hiện nay ảnh hưởng đến tính mạng con người. Vậy các nhóm thuốc giảm lan rộng vùng trong nhồi máu cơ tim như thế nào là câu hỏi của nhiều người. Nhồi máu cơ tim là bệnh lý nguy hiểm đe doạ tính mạng do tắc nghẽn đột ngột mạch máu nuôi tim. Khi cơ tim hoàn toàn không được cung cấp máu thì cơ vùng cơ tim ấy sẽ hoại tử gây triệu chứng đau ngực dữ dội. Dưới đây chúng ta cùng đi tìm hiểu xem thuốc giảm lan rộng vùng nhồi máu cơ tim như thế nào.
* Thuốc giảm lan rộng vùng trong nhồi máu cơ tim
+ Acid salicylic (biệt dược aspirin): Nên sử dụng aspirin càng sớm càng tốt, tốt nhất là ở phòng cấp cứu ngay khi bệnh nhân được chẩn đoán NMCT cấp. Dùng đường tĩnh mạch hoặc đường uống với liều cao có thể tạo ra hiệu quả điều trị nhanh chóng. Sau đó nên tiếp tục điều trị kéo dài (trừ khi có chống chỉ định).
+ Thuốc chẹn (ức chế) kênh canxi: Các thuốc này được chia làm 2 nhóm có chống chỉ định khác nhau; đó là nhóm dihydropyridin và nhóm non dihydropyridin. Nhóm non dihydropiridin có tác dụng gây giảm sức co bóp của tim, chậm nhịp tim, do vậy cần tôn trọng chặt chẽ các chống chỉ định của nhóm thuốc này.
+ Thienopyridine: Các thuốc ức chế tiểu cầu bao gồm ticlopidine clopidogrel có tác dụng ngăn cản quá trình hoạt hóa tiểu cầu, ngăn ngừa hình thành huyết khối. Thuốc được chỉ định dùng càng sớm càng tốt, ngay khi có các cơn đau thắt ngực. Đây là thuốc bắt buộc dùng trước và sau can thiệp nong động mạch vành và đặt giá đỡ (stent).
+ Thuốc ức chế thụ thể glycoprotein IIb/IIIa của tiểu cầu: Các thuốc ức chế thụ thể glycoprotein IIb/IIIa của tiểu cầu như (abciximab, eptifibatide, tirofibran…) có tác dụng ức chế quá trình ngưng tập tiểu cầu. Do vậy, nhóm thuốc này rất lý tưởng để điều trị NMCT cấp. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của thuốc này là giá thành còn rất đắt.
+ Thuốc điều chỉnh rối loạn lipid máu: Chủ yếu là các thuốc thuộc nhóm statin, các thuốc này không những làm giảm các biến cố tim mạch ở bệnh nhân có rối loạn lipid máu mà còn giảm các biến cố này ở cả bệnh nhân không có rối loạn lipid máu. Do vậy, ngay cả khi các xét nghiệm về mỡ máu cho giá trị bình thường thì việc sử dụng thuốc cũng là hết sức cần thiết.
+ Thuốc ức chế men chuyển: Các thuốc nhóm này không những có tác dụng hạ huyết áp mà còn có tác dụng chống rối loạn chức năng thất trái, chức năng nội mạc mạch máu ở bệnh nhân sau NMCT do vậy làm giảm được các biến cố suy tim, NMCT tái phát sau nhồi máu. Do vậy, thuốc được chỉ định sớm ngay khi bị NMCT. Nhược điểm hay gặp nhất của các thuốc nhóm này là triệu chứng ho. Nếu ho ít mà bệnh nhân có thể chịu đựng được thì vẫn nên cho bệnh nhân dùng thuốc. Thuốc nên được dùng bắt đầu bằng liều thấp sau đó tăng dần liều tùy theo đáp ứng của từng bệnh nhân.
+ Các thuốc tiêu sợi huyết (tiêu cục huyết khối): Như trên đã nói, các thuốc chống đông chỉ có tác dụng ngăn chặn không cho cục huyết khối hình thành hoặc lan rộng. Thuốc không có tác dụng trực tiếp trên cục huyết khối do vậy chỉ là thuốc dự phòng. Các thuốc tiêu cục huyết khối có tác dụng điều trị vì nó làm mất đi sự cản trở cơ học, làm tái lưu thông lại ĐMV để cung cấp máu trở lại cho vùng cơ tim bị thiếu máu trước đó. Muốn đạt hiệu quả tối ưu, phải dùng thuốc tiêu sợi huyết càng sớm càng tốt (không dùng thuốc nếu NMCT đã quá 12 giờ) dựa trên những tiêu chuẩn về điện tim mà không cần đợi các kết quả về men tim.
+ Các thuốc chống đông: Heparin thường: Trong lâm sàng, heparin được dùng để phòng quá trình lan rộng của huyết khối, ngăn ngừa xuất hiện huyết khối mới, huyết khối đại tuần hoàn và phòng tắc lại ĐMV. Heparin cũng ngăn cản hình thành cục máu đông bền vững do ức chế các yếu tố làm ổn định fibrin. Khi sử dụng heparin, bệnh nhân cần phải được theo dõi chặt chẽ các chỉ số đông máu để điều chỉnh liều thuốc phù hợp, nếu quá liều có thể gây biến chứng chảy máu.
Heparin trọng lượng phân tử thấp: Heparin trọng lượng phân tử thấp có tác dụng gần giống như heparin thường, nhưng có ưu điểm là không cần phải thường xuyên xét nghiệm để đánh giá tác dụng chống đông. Do vậy, việc sử dụng đơn giản hơn, tác dụng kéo dài hơn. Ngoài ra, thuốc ít gây tai biến giảm tiểu cầu hơn so với heparin thường. Các thuốc hay dùng là lovenox, fraxiparin.
+ Nhóm thuốc nitrate: Tác dụng chủ yếu của các thuốc nhóm này là gây giãn tĩnh mạch ngoại vi dẫn đến giảm lượng máu về tim kết hợp với giãn các tiểu động mạch dẫn đến giảm sức cản ngoại vi, làm giảm tiêu thụ ôxy của cơ tim. Đối với động mạch vành, thuốc cũng có tác dụng giãn động mạch do vậy chống được hiện tượng co thắt mạch vành. Thuốc còn có tác dụng làm tăng cường tuần hoàn bàng hệ tới các khu vực cơ tim bị thiếu máu. Khi bị NMCT, ngay khi xuất hiện đau thắt ngực, cần dùng ngay loại xịt hoặc ngậm dưới lưỡi, tại bệnh viện, bệnh nhân sẽ được sử dụng nitroglycerin dạng tiêm tĩnh mạch bằng bơm tiêm điện với liều khởi đầu thấp và tăng dần tùy theo đáp ứng của bệnh nhân.
+ Thuốc chẹn thụ thể bêta giao cảm: Chẹn thụ thể bêta giao cảm là nhóm thuốc đối kháng cạnh tranh với các chất giao cảm, làm giảm tần số tim, giảm sức co bóp của cơ tim, do đó làm giảm nhu cầu tiêu thụ ôxy của cơ tim và góp phần làm giảm sự lan rộng vùng hoại tử cơ tim. Ngoài ra, các thuốc này còn có tác dụng phòng và làm giảm tai biến loạn nhịp ngoại tâm thu thất. Nhóm thuốc này không được dùng trong các trường hợp: nhịp chậm, tụt huyết áp, blốc nhĩ thất mức độ cao, hen phế quản, suy tim hoặc choáng tim.
Trên đây chúng tôi đã giúp bạn tìm hiểu các thuốc giảm lan rộng vùng trong nhồi máu cơ tim thường dùng. Ngoài ra các bạn có thể tham khảo sản phẩm Bi-Cozyme để chăm sóc sức khỏe tim mạch cho người bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim.
Bi-Cozyme giúp phòng ngừa nhồi máu cơ tim, bệnh mạch vành, tai biến mạch máu não, bảo vệ sức khỏe tim mạch, giúp duy trì máu lưu thông dễ dàng, hỗ trợ hoạt động của tim và hệ thống mạch máu. Sử dụng Bi-Cozyme® hàng ngày là liệu pháp an toàn nhất để loại bỏ các mảng xơ vữa trong lòng mạch, giảm lượng cholesterol xấu, làm trẻ hoá, mềm mại mạch máu giúp điều hoà huyết áp, giảm các cơn đau thắt ngực, phòng chống đột quỵ, nhồi máu cơ tim và tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.
Hoạt chất chiết xuất từ vỏ cây liễu trắng trong Bi-Cozyme được gọi là "thuốc aspirin tự nhiên" giúp ngăn ngừa hình thành cục máu đông mà không ảnh hưởng đến cơ chế đông máu sinh lý của cơ thể, giúp chống tắc mạch, cải thiện bệnh lý tim mạch và đột quỵ một cách hiệu quả lâu dài mà không gây ra bất kỳ tác dụng phụ nào như sử dụng aspirin hoặc Plavix (Clopidogrel) trong điều trị cao HA, phòng chống tắc mạch sau đặt Stent, can thiêp tim mạch....
Bi-Cozyme còn giúp duy trì lượng đường huyết và axit uric trong máu ổn định, điều trị bệnh Gout, hỗ trợ các hệ thống cơ-xương khớp bằng cách tăng cường sức khỏe, độ linh động trong các khớp và cơ bắp, giúp duy trì sức khỏe hệ thống hô hấp và xoang, giúp khử các gốc tự do chống lão hoá.
+ Đối tượng sử dụng Bi-Cozyme: Người lớn sử dụng như chế độ bổ sung để phòng chống mệt mỏi và tăng sức khỏe cho hệ tim mạch. Người đang điều trị một số bệnh về tim mạch: bệnh thiếu máu cơ tim, tăng huyết áp động mạch, cao cholesterol, xơ vữa động mạch, bệnh mạch vành, sau đặt stant, nhồi máu cơ tim, sau tai biến mạch máu não, can thiệp tim mạch, bệnh tiểu đường, gout, các bệnh hô hấp, xương khớp, tiêu hóa ...
+ Hướng dẫn sử dụng Bi-Cozyme: Uống 1 viên/lần x 2 lần/ngày, uống trước bữa ăn 45 phút hoặc uống theo hướng dẫn của bác sĩ. Liệu trình điều tri: những người đang bị cao huyết áp, cao mỡ máu, bệnh lý tim mạch, bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim dùng liều tối đa 4 viên/ngày chia 2 lần trước bữa ăn 45 phút, đợt dùng 3 tháng sau đó dùng liều duy trì 2 viên/ngày chia 2 lần trước ăn 45 phút trong vòng 3 đến 6 tháng.
Có thể bạn quan tâm: